Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, từ đó đã giải đáp những đòi hỏi từ thực tiễn, là nền tảng quyết định thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Ngày nay Đảng ta tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh thực tiễn mới, là cơ sở thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn cách mạng nước ta. Đây chính là yếu tố quyết định thành công của Hồ Chí Minh trong giải quyết những đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn, nhân tố quyết định những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi”.
Đây là kết quả phát triển nhận thức của Đảng về giá trị to lớn, sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu bức thiết của sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn và kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta hiện nay.
1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin theo những cách thức riêng, độc đáo.
Thứ nhất, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược đất nước ta, dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu cảnh mất nước. Chúng không cho nhân dân ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu. Với khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của dân tộc, hàng loạt các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đã diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như: dân chủ tư sản, phong kiến, tiểu tư sản…. song tất cả đều thất bại.
Bằng tư duy độc lập, tự chủ và nhãn quan chính trị đặc biệt, Nguyễn Tất Thành đã phân tích sâu sắc, thấu đáo thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chỉ ra những hạn chế cốt tử của các trào lưu cứu nước đương thời: con đường cứu nước của Cụ Phan Bội Châu “chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” của Cụ Phan Châu Trinh chẳng khác gì “Cầu xin giặc rủ lòng thương”, của Cụ Hoàng Hoa Thám “còn nặng cốt cách phong kiến”… Với khát vọng cứu nước cháy bỏng, Nguyễn Tất Thành nhận thức rõ đòi hỏi bức thiết của dân tộc Việt Nam là cần có đường lối cách mạng đúng đắn soi đường.
Ngày 5- 6-1911, Nguyễn Tất Thành lên tàu bắt đầu hành trình sang phương Tây tìm đường cứu nước, với mục đích cao cả “đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Người đã đi sâu tìm hiểu những gì ẩn chứa đằng sau những chữ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” mà chủ nghĩa tư bản hết lời ca tụng. Tuy nhiên, trái ngược với những mỹ từ mà chúng tuyên truyền ở thuộc địa, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện ra bản chất bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân từ chính những điều mắt thấy, tai nghe. Trên cơ sở đó, Người đi đến kết luận: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các nhà yêu nước viết bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm tám điểm gửi Hội nghị Vécxây để đòi những quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam nhưng không được Hội nghị xem xét. Điều đó đã giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Sau này, Người viết: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” và “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
Đi sâu phân tích cách mạng tư sản ở Bắc Mỹ năm 1776 và cách mạng tư sản Pháp năm 1791, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”.
Thất vọng trước những lý tưởng giả hiệu của chủ nghĩa tư bản nhưng Nguyễn Ái Quốc không hề bi quan, mất niềm tin, trái lại Người luôn khao khát tìm kiếm chân lý cứu nước đúng đắn. Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp). Người tỏ rõ sự “cảm động, sáng tỏ và tin tưởng” vào con đường cách mạng do lãnh tụ V.I.Lênin vạch ra. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trên cơ sở đó, Người quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là sự lựa chọn đáp ứng khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam, phù hợp với tính chất của thời đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vị toàn thế giới.
Thứ hai, bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin “bằng cách đưa vào đó những tư liệu mà đời mình Mác chưa có được”
Học thuyết Mác - Lênin là một khoa học, là đỉnh cao trí tuệ nhân loại, hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin đã khó, vận dụng sáng tạo để không rơi vào tư duy giáo điều, “tả” khuynh, hữu khuynh, chủ quan, duy ý chí càng khó hơn và bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin càng khó hơn nữa.
Nhận thức đúng đắn và sâu sắc tính chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc tự nguyện trở thành và đứng trong hàng ngũ những người cộng sản, luôn ghi nhớ lời căn dặn của Ph.Ăngghen: “Học thuyết của Mác là lý luận của sự phát triển chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”.
Người học tập tấm gương của lãnh tụ cộng sản thiên tài V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn lạc hậu đối với cuộc sống”. Kể từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, khảo nghiệm chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần cách mạng triệt để, với quan điểm thực tiễn sâu sắc.
Là người am hiểu sâu sắc xã hội phương Đông và chế độ thuộc địa, Hồ Chí Minh đã có nhiều luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay sau khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, Người chỉ rõ: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”. Bằng quan điểm thực tiễn sâu sắc, Người đã dũng cảm đưa ra đề xuất táo bạo: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Bởi vì, “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”.
Theo Người, “xem xét lại chủ nghĩa Mác” không phải là hành động “xét lại” chủ nghĩa Mác - Lênin mà là làm cho chủ nghĩa ấy đứng vững trên mảnh đất hiện thực Việt Nam. Đó càng không phải là sự đối lập giữa tư tưởng của mình với chủ nghĩa Mác - Lênin mà là sự sáng tạo tư tưởng của Người trên nền tảng thế giới quan duy vật và phương pháp luận duy vật biện chứng. Đây có thể coi là tiền đề, xuất phát điểm cho những cống hiến sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hiểu chủ nghĩa Mác đã là khó khăn với nhiều người vì rõ ràng nó là đỉnh cao trí tuệ nhân loại nhưng dũng cảm đề xuất bổ sung “cơ sở lịch sử cho chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” thì quả thực ít người làm được như Nguyễn Ái Quốc. Theo Người, sở dĩ chủ nghĩa Mác - Lênin là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất” không chỉ vì nó giúp nhân dân Việt Nam nhận thức rõ muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản, mà hơn hết và trên hết đó là “học thuyết mở” cho phép những người cộng sản được sáng tạo lý luận “bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động”.
Tuy nhiên, học huyết Mác - Lênin là “cẩm nang” thần kỳ” chứ tuyệt nhiên không phải là “kinh thánh”. Là lãnh tụ cách mạng trưởng thành từ thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc rằng, không có con đường cách mạng vô sản nào trên thế giới định sẵn đối với dân tộc Việt Nam mà phải dùng phương pháp luận duy vật biện chứng để vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn đất nước. Với cách nhập đề khoa học, biện chứng nêu trên, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam với lộ trình, bước đi, biện pháp phù hợp, sáng tạo, độc đáo.
Với kiến thức sâu rộng về lịch sử dân tộc, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp cứu nguy và chấn hưng dân tộc. Yêu nước là truyền thống quý báu, là tình cảm dân tộc thiêng liêng, sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam có sức mạnh lớn lao, “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Do đó, hành trình vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc thực chất là sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, với phương pháp chủ yếu là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Phương pháp “nhân danh Quốc tế Cộng sản” chính là các biện pháp đưa cách mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây hoàn toàn không phải là thủ đoạn chính trị hòng dụ dỗ, lôi kéo quần chúng nhân dân hay thủ thuật “đánh lận con đen” nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản như các phần tử phản động bóp méo, xuyên tạc.
Tuy nhiên, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong bối cảnh của một nước thuộc địa là trường hợp chưa có tiền lệ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, đấu tranh để giải phóng giai cấp là điều kiện tiên quyết để giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp, dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất xã hội Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề dân tộc lên trên hết, trước hết và xác định giải phóng dân tộc là điều kiện quyết định để giải phóng giai cấp. Bởi vì, “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đây là sự vận dụng sáng tạo phương pháp luận duy vật biện chứng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là sự vận dụng quy luật chung vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, tuyệt nhiên không phải là sự “đối lập” hay “xét lại” chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ ba, kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” chứ không phải “áp dụng một cách máy móc”
Với quan điểm cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh”, ngay sau khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc nỗ lực vận động thành lập Đảng.
Theo V.I.Lênin, đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Tuy nhiên, ở Việt Nam, áp dụng công thức này không đem lại kết quả, vì giai cấp công nhân quá nhỏ về số lượng và yếu về chất lượng, lại đang chịu cảnh thực dân phong kiến áp bức. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy ở Việt Nam lúc bấy giờ, lực lượng xã hội to lớn, có đủ khả năng hấp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là lực lượng thanh niên yêu nước. Có kiến thức và nhiệt thành yêu nước, tầng lớp thanh niên được Người tin tưởng sẽ là hạt nhân nòng cốt trong việc giác ngộ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô tới Quảng Châu (Trung Quốc), hoạt động cách mạng với nhiệm vụ chuẩn bị công tác lý luận, tuyên truyền, tổ chức và bồi dưỡng cán bộ, tạo cơ sở vững chắc cho việc thành lập Đảng. Tại đây, Người đã cải tổ “Tâm tâm xã” thành tổ chức “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, sáng lập báo Thanh niên và tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ.
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn tài liệu giảng dạy và truyền đạt những nội dung học tập. Học viên trong các lớp huấn luyện được trang bị những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào cách mạng thế giới và phong trào cách mạng Việt Nam...
Nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại thành cuốn sách với tiêu đề Đường Cách mệnh (xuất bản năm 1927).
Đồng thời, để những thanh niên có tinh thần cách mạng trở thành những chiến sĩ cộng sản thực thụ, Nguyễn Ái Quốc đưa họ về Việt Nam hoạt động thông qua phong trào “Vô sản hóa” với mục đích: giác ngộ bản chất giai cấp công nhân và tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đây là phương thức “gián tiếp” để tổ chức ra Đảng, đồng thời qua đó phản ánh tính đặc thù về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kể từ đây, Đảng ta đảm nhiệm trọng trách lịch sử là người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến những thắng lợi vĩ đại. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước mà còn góp phần bổ sung làm sâu sắc thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin về quy luật ra đời của đảng cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh: đây là lần đầu tiên trong lịch sử các dân tộc thuộc địa, dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, một đảng cách mạng non trẻ mới 15 tuổi đã lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành cách mạng thành công trong cả nước.
Tuy nhiên, giành được chính quyền đã khó, giữ vững được chính quyền còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức của thù trong, giặc ngoài. Tình thế cách mạng lúc này đặc biệt nguy cấp như “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Một sách lược quan trọng mà V.I.Lênin căn dặn những người cộng sản là phải nghiên cứu thực tiễn một cách khoa học, tỷ mỷ và thực thi một cách mềm dẻo, khéo léo; nếu có lợi cho cách mạng thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp.
Thấm nhuần lợi dạy và bài học giữ vững chính quyền Xô viết của lãnh tụ V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo trong đấu tranh bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nhờ kiên trì, linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” đã góp phần phân hóa, cô lập kẻ thù, chủ động kéo dài thời gian hoà hoãn để chuẩn bị thực lực trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: Đó là những cuộc “hưu chiến” khôn ngoan, đầy bản lĩnh nhờ trí tuệ thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong điều kiện phải đương đầu với kẻ địch mạnh, nhiều ý kiến cho rằng: “cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đá voi”. Tuy nhiên, với quyết tâm sắt đá “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước”, dân tộc ta đã kiên cường thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” chống thực dân Pháp xâm lược và kết thúc thắng lợi bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Tuy nhiên, giành và giữ vững chính quyền đã khó, xây dựng CNXH còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Bởi vì, CNXH là chế độ xã hội hoàn toàn mới mẻ trong điều kiện nước ta đi lên CNXH “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Càng khắc nghiệt hơn, khi Việt Nam xây dựng CNXH trong tình trạng đất nước “vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh”, lại phải tiến hành nhiệm vụ “song trùng” vừa xây dựng CNXH, vừa đấu tranh thống nhất đất nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu chỉ có ý nghĩa tham khảo, tuyệt nhiên không thể áp dụng rập khuân, máy móc. Bởi vì, “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”. Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong kiến tạo chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra phương châm: “phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”.
Trên cơ sở đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta vững bước đi lên CNXH.
Nhờ đường lối đúng đắn, sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của và củng cố niềm tin vững chắc cho đồng bào miền Nam “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”.
Đây là thành công lớn của cách mạng Việt Nam và chưa từng có tiền lệ trong lịch sử cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đại thắng mùa Xuân năm 1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH.
Những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH được ghi vào lịch sử dân tộc như biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam, khẳng định sức sống trường tồn, bất diệt và sức mạnh vô song của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, khẳng định vấn đề có tính quy luật: Một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng nếu biết phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng mác xít cách mạng chân chính, luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang.
Thứ tư, bản lĩnh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trước mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những giai đoạn gặp nhiều khó khăn, thử thách
Trong quá trình kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của đất nước, Hồ Chí Minh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách đòi hỏi phải có bản lĩnh, trí tuệ, nghị lực phi thường và niềm tin cách mạng tuyệt đối để vượt qua.
Ngay sau sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930), Nguyễn Ái Quốc đã bị Quốc tế Cộng sản và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương hiểu lầm ở nhiều phương diện: tên Đảng, xác định lực lượng cách mạng... Vào thời điểm này, Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, rơi vào chủ quan khi đánh giá về lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa, đánh giá sai tương quan lực lượng các giai cấp. Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản xác định: lực lượng cách mạng chỉ bao gồm hai giai cấp công nhân và nông dân. Trong khi đó, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên”: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”. Vì vậy mà từ năm 1931 đến 1938, Nguyễn Ái Quốc không được phân công nhiệm vụ trong Quốc tế Cộng sản. Thông qua “Thư gửi một đồng chí ở quốc tế cộng sản”, chúng ta thấy rõ những thử thách đó: “Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng Công. Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi... Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”. Trước khó khăn, thử thách, Người luôn kiên định con đường cách mạng đã xác định.
Năm 1938, trong bối cảnh cần tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa phát xít, những quan điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản thừa nhận. Tổ chức cũng chấp thuận cho Người về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về đến Việt Nam, chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (năm 1941), đánh dấu việc hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược bằng việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Những quyết sách đúng đắn của Hội nghị là tiền đề dẫn tới thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những bước phát triển tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng CNXH, bản lĩnh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện sâu sắc ở đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Với quan điểm “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hoạch định đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã góp phần phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn. Đặc biệt, trước những diễn biến của “Chiến tranh lạnh” giữa Mỹ và Liên Xô, trong “sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”, bản lĩnh kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành nền tảng để Hồ Chí Minh và Đảng ta tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
2. Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thành tựu đó có được là nhờ Đảng ta luôn “kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu to lớn, đất nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, các thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp và khó dự báo. Trong nước, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến phức tạp. Nghiêm trọng hơn, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, thậm chí phủ nhận mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì vậy, tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là “chìa khóa” để thực hiện thắng lợi mục tiêu “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở kế thừa và phát huy nền tảng thành công của Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, tích cực đổi mới tư duy lý luận gắn với nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn
Đổi mới tư duy lý luận là yêu cầu cấp bách, nhiệm vụ then chốt của Đảng nhằm phát huy tiềm năng, vị thế, điều kiện thực tiễn của đất nước; tận dụng tối đa xu thế phát triển của thời đại, bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững theo đúng định hướng XHCN. Đổi mới tư duy lý luận không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà phải vận dụng sáng tạo thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng vào thực tiễn đất nước. Đặc biệt, “không thể kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành cùng thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”.
Đổi mới tư duy lý luận phải gắn liền với đổi mới công tác cán bộ, coi đây là khâu “then chốt của then chốt”. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta từng chứng kiến nhiều cán bộ dũng cảm “xé rào”, “vượt rào” vì dân, vì nước. Do đó cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”.
Mặt khác, “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực”. Do đó, đổi mới tư duy lý luận phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xu thế vận động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhất là sự phát triển của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư... để bổ sung “những tư liệu” mà ở thời mình C.Mác, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh chưa có được theo đúng như tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Phải tập trung nâng cao hơn nữa chất lượng tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Hai là, nâng cao bản lĩnh chính trị cho toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị trong kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nhiệm vụ trọng tâm là phải nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị làm cho toàn Đảng, toàn dân “ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng cũng như ngoài Đảng về tinh thần luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì, “Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”.
Ba là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phá tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” chính là phương châm cơ bản trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Theo đó, cần tăng cường lan toả những giá trị, bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm góp phần nâng cao khả năng “miễn dịch” của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, cần quyết liệt đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, chống phá Đảng và Nhà nước ta trên không gian mạng. Chủ động xây dựng các tình huống và kịch bản đấu tranh với các thế lực phản động, thù địch, tránh bị động, bất ngờ hoặc tạo “khoảng trống” để kẻ thù lợi dụng chống phá, xuyên tạc.
Hồ Chí Minh đã kiên định, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin theo những cách thức riêng, sáng tạo, độc đáo nhằm giải quyết triệt để những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đây chính là nền tảng thành công của Người đã được thực tiễn kiểm chứng, đòi hỏi Đảng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn mới của đất nước và “không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. Tất cả mọi mưu toan xuyên tạc hay phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là “những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ” và tất yếu sẽ bị lịch sử chôn vùi. Thế giới còn đổi thay nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi./.