1. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch trên không gian mạng - trách nhiệm không của riêng ai
Không gian mạng (Facebook, Zalo, Youtube, Instagram, Linkedin, Zingme, Google…) đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều lợi ích đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, do có tính mở, với đặc trưng tự do, đa dạng, bình đẳng, nhiều khi bị xóa nhoà ranh giới giữa thực và ảo, vì vậy không gian mạng mang đến không ít thách thức đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chuyển hóa chính trị, khủng bố. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Đấu tranh tư tưởng trên không gian mạng hiện nay là vấn đề khách quan, nhiệm vụ trọng yếu, đòi hỏi mọi người, lực lượng thực thi nhiệm vụ này trên không gian mạng phải luôn nhận thức đầy đủ những thách thức và yêu cầu của nhiệm vụ, xây dựng bản lĩnh, trách nhiệm và quyết tâm cao, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng trước tình hình mới.
Để tuyên truyền những quan điểm sai trái, các thế lực thù địch đã sử dụng rất nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm hơn, có tác động đến các tầng lớp trong xã hội. Thủ đoạn tấn công, đả kích trực diện nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giả danh mác xít, “giả khoa học” để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đã đạt được trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế. Lợi dụng, cường điệu hóa những hạn chế, khuyết điểm của Đảng và hệ thống chính trị trong lãnh đạo, quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội để quy kết cho rằng việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng chính là nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế, khiếm khuyết đó. Bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc lý lịch, thân thế sự nghiệp các lãnh tụ, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước để đi đến phủ nhận con người, phủ nhận hệ tư tưởng mác xít và vai trò lãnh đạo của Đảng. Thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân để thông qua đối tượng này trực tiếp phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng các sự kiện chính trị - xã hội “nhạy cảm”, việc bắt, xử lý số cán bộ cao cấp về tội tham nhũng; xét xử số đối tượng chống đối vi phạm pháp luật, để lôi kéo, kích động người dân tập trung đông người gây rối an ninh, trật tự, biểu tình, bạo loạn, lật đổ; tuyên truyền kích động các hoạt động ly khai, tự trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Móc nối, lôi kéo các đối tượng cơ hội chính trị có cả cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí thức, văn nghệ sĩ tăng cường chống Đảng, cổ xúy cho “dân chủ tư sản”, “xã hội dân sự”, “xã hội dân chủ”.
Về hình thức tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu qua các phương tiện truyền thông, internet, blog, mạng xã hội, duy trì sử dụng hàng chục đài phát thanh chương trình Việt ngữ, hàng trăm báo, tạp chí, nhà xuất bản tiếng Việt, hàng ngàn website, blog... để liên tục phát tán những thông tin xấu, độc, xuyên tạc, chống phá gây tác động xấu đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chúng lập ra nhiều trang web mạo danh các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, một số nhân vật được xã hội chú ý hoặc nhân danh “đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”, “bảo vệ môi trường”, “bảo vệ chủ quyền biển, đảo”, “phản biện xã hội”, “hiến kế cho Đảng”… để trích dẫn, bình luận, xuyên tạc, hạ uy tín, làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước. Đồng thời, đưa lên internet và mạng xã hội những mặt trái của xã hội, khai thác những thông tin tiêu cực, không chính thống, chưa rõ ràng để dẫn dắt, hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực, làm cho người đọc mơ hồ, mất cảnh giác nhằm mục đích tạo nên sự hoài nghi, phản kháng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó, chuyển hóa dần sang tư tưởng sai trái, phản động, thù địch. Chúng còn xuất bản các xuất bản phẩm có nội dung xấu, độc; biên soạn tài liệu, video lồng ghép nội dung thổi phồng, xuyên tạc, bóp méo sự thật; tiến hành rải truyền đơn, tờ rơi, viết vẽ khẩu hiệu phản động. Các thế lực thù địch tiếp tục tổ chức viết nhiều tài liệu, “tác phẩm” dưới dạng văn học nhằm dựng chuyện, vu cáo, bôi nhọ, từ đó xóa bỏ học thuyết Mác - Lênin và lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đối tượng tác động của hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là trí thức, văn nghệ sĩ; cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ hưu trí, cán bộ, đảng viên có biểu hiện bất mãn, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa; thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh viên; người lao động…
Tại Việt Nam, với dân số khoảng 95 triệu người, tỷ lệ người sử dụng internet chiếm hơn 65% (đứng thứ 16 thế giới về số lượng người sử dụng internet), trong đó có khoảng 94% người dùng với mục đích sử dụng mạng xã hội. Các mạng xã hội được người dùng Việt Nam sử dụng phổ biến là Facebook, Zalo, Youtube, Instagram..., nhiều nhất là mạng xã hội Facebook với gần 60 triệu người dùng (đứng thứ 7 thế giới). Nhận thức được điều này, Đảng ta đã xác định, cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, ngày càng diễn ra quyết liệt. Trong các văn kiện đại hội ở thời kỳ đổi mới, Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) của Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong bốn nguy cơ. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch”. Đại hội IX của Đảng khẳng định phải “Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”. Với tinh thần đó, Đại hội X của Đảng đã yêu cầu “chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”.
Để thực hiện những chủ trương đó, Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết nêu rõ các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp lớn. Một trong những văn bản quan trọng là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X), ngày 01/8/2007 “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng chống nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa ở cả Trung ương, các ngành, các cấp”. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) đã nhận định: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc, đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội. Các phần tử cơ hội chính trị trong nước móc nối với thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài xuyên tạc, vu cáo, chống phá quyết liệt Đảng, Nhà nước ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Trên cơ sở nhận định đó, Nghị quyết đã yêu cầu “triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng chống nguy cơ tự diễn biến ở cả Trung ương và các ngành, các cấp.
Nghị quyết Trung ương 9, khóa X, ngày 02/2/2009 “Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng” cũng đã nhấn mạnh: “Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển, hóa” và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ luận điệu tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng”.
Đến Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”. Ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khoá XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Như vậy, có thể thấy, đấu tranh trên không gian mạng hiện nay là rất gay gắt trên mặt trận tư tưởng lý luận. Giữ vững trận địa tư tưởng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng là nhiệm vụ quan trọng và hết sức cấp thiết. Nhằm chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu lợi dụng không gian mạng đưa thông tin xấu độc, giả mạo chống phá cách mạng Việt Nam, cán bộ, đảng viên cần hạn chế thấp nhất tác động ảnh hưởng tiêu cực của các nhóm thành phần lợi dụng không gian mạng. Đồng thời, tập trung làm tốt một số giải pháp sau:
Một là, chú trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để nhìn nhận và có trách nhiệm, ý thức trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, các dấu hiệu “tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đây là một giải pháp rất quan trọng, thường xuyên, cơ bản, lâu dài để mỗi cán bộ, đảng viên dù công tác ở cương vị nào cũng nêu cao trách nhiệm và nâng cao cảnh giác, bảo đảm “giữ vững bên trong là chính”.
Hai là, tổ chức tuyên truyền bằng nhiều nội dung, hình thức, trong đó tập trung tuyên truyền về âm mưu, phương thức, thủ đoạn đưa thông tin xấu độc, giả mạo trên không gian mạng của các loại đối tượng làm chuyển biến nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân khi tham gia, tương tác, chia sẻ bình luận, hưởng ứng, bài viết trên các trang mạng xã hội có trách nhiệm trước bản thân, trước pháp luật.
Ba là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng, Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới và Thông báo số 17/TB-VPTW ngày 23/8/2016 của Thường trực Ban Bí thư về biện pháp cấp bách bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thật tốt Nghị quyết này, xem đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bốn là, thường xuyên cập nhật thông tin, phát huy tích cực vai trò của các cơ quan báo chí, xuất bản. Chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet trong nước xây dựng phương án phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các trang mạng phản động./.
Nguồn Cổng thông tin điện tử Đảng ủy Khối Cơ quan Trung ương
II. Đề cương tuyên truyền
1. Kỷ niệm 47 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2022)
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào năm 1954, buộc Pháp phải ký hiệp định Genève thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhưng Mỹ là một trong những nước dự hội nghị Genève đã không ký tuyên bố cuối cùng của Hội nghị. Mỹ nhanh chóng xúc tiến kế hoạch xâm lược miền Nam nước ta bằng chính sách thực dân mới. Mỹ dựng lên Chính phủ bù nhìn ở miền Nam với âm mưu là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc và các nước XHCN.
Xuất phát từ mưu đồ và dã tâm đó, đế quốc Mỹ ráo riết xúc tiến kế hoạch nhảy vào miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, đồng thời dựng lên chính quyền tay sai, độc tài Ngô Đình Diệm để đàn áp, tiêu diệt những người kháng chiến, cơ sở cách mạng và đồng bào ta. Chúng dựng lên nhiều nhà tù, trại giam, trại tập trung; biến miền Nam thành nhà tù khổng lồ dưới sự cai trị hà khắc của Mỹ-Diệm. Tuy bị khủng bố, đàn áp dã man nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta liên tục đấu tranh đòi Mỹ thực hiện hiệp định Genève chống khủng bố, đàn áp, chống tố cộng, diệt cộng. Đồng thời, bắt tay vào việc xây dựng, củng cố và ổn định miền Bắc theo hướng XHCN làm căn cứ vững chắc cho cách mạng cả nước.
Tháng 01/1959, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì họp tại Hà Nội đã ra nghị quyết khẳng định: "Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ".
Nghị quyết 15 đã phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu tiến lên của cách mạng miền Nam. Nó là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi (1959-1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy kèm kẹp của ngụy quân, ngụy quyền ở các thôn xã, giành quyền tự quản về tay nhân dân, đẩy chính quyền ngụy vào thế lúng túng.
Từ cuối năm 1960, Mỹ áp dụng hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai, độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm nhưng đã liên tiếp thất bại. Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, chiếm lại những địa bàn, vùng dân cư đã mất sau phong trào Đồng khởi của ta, đế quốc Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Nội dung cơ bản là càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược trên qui mô lớn theo chiến thuật “tát nước bắt cá”.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quân dân miền Nam, hệ thống ấp chiến lược do Mỹ - ngụy lập ra ở miền Nam cơ bản đã bị nhân dân phá vỡ. Trên lĩnh vực đấu tranh vũ trang, quân dân ta cũng giành được những thắng lợi to lớn. Điển hình là trận Ấp Bắc (02/01/1963) đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”; chiến dịch Bình Giã (02/12/1964-03/01/1965); chiến dịch Đồng Xoài (10/5 -22/7/1965)... Cuối năm 1963 sau những thất bại liên tiếp Mỹ đã phải “thay ngựa giữa dòng” bằng cuộc đảo chính, phế bỏ Diệm, Nhu, làm chính quyền tay sai của Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra từ miền Nam Việt Nam về báo cáo trước Nhà trắng và Quốc hội Mỹ rằng: “Quân lực Việt Nam đã không còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đã thất bại”.
Trong chiến lược ”Chiến tranh đặc biệt”, từ ngày 05/8/1964 đến khi phá sản hoàn toàn, đế quốc Mỹ đã 64 lần dùng không quân đánh phá miền Bắc song đã bị quân dân ta đánh trả quyết liệt và phải chấp nhận thất bại ngay từ đầu.
Trước sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược“Chiến tranh cục bộ” hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 24-30 tháng (từ 1965-1967). Quân Mỹ và quân ngụy được huy động với số lượng từ 100 vạn lên 120 vạn cùng với các loại phương tiện chiến tranh hiện đại nhất thời bấy giờ, để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, hòng bẻ gãy xương sống Việt cộng ở miền Nam. Đồng thời dùng không quân, hải quân để đánh phá ác liệt miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Số bom của Mỹ đã ném xuống miền Bắc lớn hơn nhiều lần số bom của Mỹ và đồng minh ném xuống khu vực Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ 2.
Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định: “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Đáp lời kêu gọi của Người, khí thế đánh Mỹ của quân dân ta dâng cao trên cả hai miền.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 14 (tháng 01/1968) và các Nghị quyết của Bộ Chính trị trước đó, đúng vào đêm giao thừa và đêm mùng 01 tết Mậu Thân, quân và dân miền Nam đồng loạt nổi dậy tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hầu hết cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ- ngụy. Ngày 31/3/1968 Tổng thống Mỹ Giôn-Xơn phải ra tuyên bố 4 điểm: Chấm dứt việc đưa quân Mỹ vào miền Nam, trao dần vai trò chiến đấu trực tiếp cho quân đội Sài Gòn; đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari; không tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai nữa. Đến 5/1968, Mỹ phải bắt đầu đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Trước những thất bại nặng nề của Mỹ - ngụy, Ních-Xơn thực hiện học thuyết “dùng người Việt giết người Việt”, “dùng người Đông Dương giết người Đông Dương” bằng tiền và vũ khí của Mỹ. Mỹ - ngụy đã tập trung lực lượng bình định miền Nam, dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại miền Bắc với những bước leo thang rất ác liệt, như dùng B52 để đánh trên không, thả mìn phong tỏa các cửa sông, cửa biển, mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác ở miền Bắc.
Thực hiện phương hướng chiến lược trong thư chúc mừng năm mới (01/01/1969) của Hồ Chủ tịch “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và lời kêu gọi của Người tháng 7/1969 là “Đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết”, nhờ chuẩn bị tốt cả thế và lực, nắm đúng thời cơ, bộ đội chủ lực của ta đã tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược năm 1972; cùng lúc đó quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, nhất là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược B52 của Mỹ vào Hà Nội và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc đã làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành thắng lợi quyết định, kết hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”; buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari ngày 27/01/1973 rút quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, làm cho so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Tuy buộc phải ký hiệp định Pari về Việt Nam và rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng với bản chất ngoan cố, Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ tiếp tục tăng cường viện trợ quân sự, chỉ huy chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng.
Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Mỹ không ngại tiếp tay cho ngụy lấn chiếm và bình định, điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Đến cuối năm 1974 cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” do Mỹ-ngụy tiến hành giành nhiều thắng lợi lớn. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy càng ngày càng suy yếu rõ rệt, nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ nghiêm trọng.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, quân và dân toàn miền Nam tiếp tục chiến đấu giải phóng vùng địch chiếm đóng, đặc biệt việc giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long cuối năm 1974 và đầu năm 1975 cho thấy khả năng thực tế ngày càng suy yếu của ngụy quyền Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại trở lại miền Nam. Chớp thời cơ, ngày 04/3/1975 ta mở cuộc tổng tiến công chiến lược Xuân 1975 bằng 3 đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định và giành thắng lợi hoàn toàn, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào trưa ngày 30/4/1975.
Ý nghĩa thắng lợi
*Đối với nhân dân ta
- Là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta. Cuộc chiến tranh với qui mô lớn nhất, lâu dài nhất, ác liệt nhất trong lịch sử và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mỹ.
- Đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản và quyết định con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu trong Chính cương vắn tắt năm 1930- Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Kế tục thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, phát huy thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), là trận đánh quyết định nhất, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc và phong kiến ở nước ta. Cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Đã nâng vị trí chính trị của Việt Nam lên tầm cao mới trên thế giới, là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ 20 và mãi mãi về sau.
* Đối với thế giới
- Là thắng lợi tiêu biểu của các lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
- Là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới: Kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc đầu sỏ.
- Là nguồn cổ vũ dân tộc hãy tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội. Thắng lợi này trực tiếp góp phần vào việc giải phóng dân tộc của nhân dân Lào và Campuchia.
- Đập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng cách mạng kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai của CNTB, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn CNXH ở Đông Nam Á, góp phần làm đảo lộn “chiến lược toàn cầu” phản cách mạng của Mỹ.
- Đã nêu bật chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-Lênin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là nước đế quốc đầu sỏ.
* Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Nhân dân và các lực lượng vũ trang đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người.
- Cả nước có sự đoàn kết thống nhất cao: thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết Bắc - Nam, đoàn kết quân dân trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại.
- Đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau, tạo nên sức mạnh để đánh thắng kẻ thù.
* Những bài học kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
- Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược
- Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ
- Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc
- Đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia
- Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại
- Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người
2. Kỷ niệm 136 năm ngày Quốc tế lao động (01/5/1886 - 01/5/2022)
Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01/5 thực sự có ý nghĩa khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kỷ niệm Ngày chiến thắng lịch sử 30/4. Đây là dịp giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước ôn lại truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 24/2/2012, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Thông báo số 77-TB/TW về tổ chức “Tháng Công nhân”, trong đó nêu rõ: Đồng ý chủ trương lấy tháng 5 hằng năm là “Tháng Công nhân”. Tổ chức hoạt động “Tháng Công nhân” nhằm mục tiêu chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp quan tâm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tổ chức “Tháng Công nhân” hằng năm, phải hướng về cơ sở, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với điều kiện sống, làm việc của công nhân, viên chức, lao động; trong đó, tập trung cho hoạt động tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giải quyết những khó khăn, bức xúc của công nhân, viên chức, lao động, thực hiện tốt việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, lao động. Thông báo của Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp cùng Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức thực hiện tốt các hoạt động trong “Tháng Công nhân”.
Chúng ta tổ chức “Tháng công nhân” trong lúc cả nước đang ra sức thi đua chào mừng kỷ niệm 136 năm ngày Quốc tế lao động (01/5/1886- 01/5/2022), 47 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022).
Trong khoảng thời gian 30 năm cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn cạnh tranh quyết liệt, sản xuất công nghiệp tăng nhanh. Đồng thời với những bước tiến lớn của nền kinh tế tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản tăng cường bóc lột và bần cùng hóa công nhân lao động. Trong xã hội, đối kháng giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc, dẫn đến nhiều cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Trong cuộc đấu tranh đó, vấn đề thời gian lao động có ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế I họp tại Genève (Thụy Sỹ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ xuất hiện ở một số nơi của nước Anh. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Mỹ từ một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc châu Âu, đã mở rộng sản xuất, trở thành một quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới. Thành phố Chi-ca-gô trở thành trung tâm thương nghiệp của Mỹ. Mỹ lao vào cuộc chạy đua cạnh tranh tư bản. Các guồng máy chạy hết công suất suốt ngày đêm, hàng vạn công nhân bị bắt buộc làm việc mỗi ngày từ 14-18 giờ, phụ nữ quần quật lao động không kém gì nam giới nhưng đồng lương chỉ bằng ½ nam giới và suốt tuần không có ngày nghỉ; trẻ em phải làm việc 12 giờ/ngày. Không chịu đựng mãi với chế độ bóc lột tàn khốc của giai cấp tư sản, phong trào bãi công của công nhân châu Âu, Bắc Mỹ bùng lên, với đòi hỏi bức thiết là tăng lương, giảm giờ làm. Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân là sự ra đời và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc chính phủ. Tuy nhiên, các xí nghiệp vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Tại thành phố Chi-ca-gô, ngày 01/5/1886, hưởng ứng lời kêu gọi của “Liên đoàn lao động Mỹ”, công nhân toàn thành phố tiến hành bãi công, tổ chức mít tinh và biểu tình trên đường phố. Khẩu hiệu “ngày làm việc 8 giờ” trở thành tiếng nói chung của giai cấp công nhân, chính quyền tư sản rơi vào thế bị động. Ngày 03/5, hơn 6 ngàn công nhân tổ chức mít tinh; những tên chủ tư bản ngoan cố không trả lời yêu sách của công nhân, cho đóng cửa nhà máy và những người bãi công phản đối bị cảnh sát đàn áp, 9 công nhân bị giết, 50 người bị thương nặng, gây chấn động thành phố. Ngày 04/5, một cuộc mít tinh khổng lồ diễn ra ở quảng trường Hay-mác-két để phản kháng hành động của cảnh sát. Bọn chủ dùng thủ đoạn xảo trá cho bọn tay chân ném một quả bom làm chết 7 cảnh sát, 4 công nhân và nhiều người bị thương. Lấy cớ đó chính quyền mở cuộc khủng bố lớn làm hơn 200 người chết và bị thương, nhà tù chật ních những người tham gia đấu tranh.
Vụ tàn sát đẫm máu sau ngày 01/5/1886 gây nên chấn động lớn trong giai cấp công nhân thế giới. Ở Mỹ, nhiều cuộc biểu tình lớn nổ ra tại các thành phố lên tiếng ủng hộ yêu sách của công nhân Chi-ca-gô. Công nhân Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan… tổ chức nhiều cuộc mít tinh bày tỏ sự đồng tình với công nhân Mỹ.
Hơn một năm sau ngày đấu tranh 01/5, sáng 11/11/1887, các thủ lĩnh của cuộc đấu tranh bị chính quyền treo cổ. Tuy phong trào bị trấn áp, nhưng chính phủ buộc phải ban hành đạo luật ngày làm 8 giờ.
Để ghi nhận những thành quả của phong trào công nhân các nước, ngay trong Đại hội thành lập Quốc tế thứ II được triệu tập ngày 14/7/1889, các đại biểu của giai cấp công nhân đã thông qua Nghị quyết lấy ngày 01/5 làm ngày đoàn kết đấu tranh của những người cộng sản trên toàn thế giới. Từ đó ngày 01/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế thứ II, vào ngày 01/5/1890, lần đầu tiên ngày Quốc tế Lao động được kỷ niệm trên qui mô thế giới. Giai cấp công nhân ở các nước Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Áo, Đan Mạch, Bỉ, Thụy Điển, Hà lan, Ý và nhiều nước khác tiến hành bãi công, mít tinh, biểu tình mang theo biểu ngữ “Ngày làm 8 giờ”, “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Đối với Việt Nam, từ những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam qua những tác phẩm của mình, giúp công nhân lao động Việt Nam hiểu rõ phong trào cộng sản, công nhân, công đoàn thế giới, biết đến Cách mạng Tháng Mười Nga, ngày Quốc tế Lao động 01/5 và biểu lộ sự đoàn kết với vô sản, cần lao quốc tế.
Ngày 01/5/1925, công nhân Chợ Lớn, công nhân đường sắt Dĩ An và công nhân Đà Nẵng biểu tình bày tỏ ý chí bảo vệ Liên bang Xô viết. Tháng 8 năm 1925, công nhân nhà máy đóng tàu Ba Son (Sài Gòn) đã bãi công đòi tăng lương và để ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân Thượng Hải (Trung Quốc). Những cuộc đấu tranh đầu tiên ấy đánh dấu sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, một mốc son chuyển phong trào công nhân Việt Nam phát triển từng bước tự phát đến tự giác.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 03/02/1930, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, đóng vai trò nòng cốt trong khối liên minh Công-Nông. Phong trào đấu tranh ngày 01/5/1930 đã mở đầu cho cao trào cách mạng 1930-1931. Từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc chí Nam, nhiều nơi treo cờ Đảng, tổ chức mít tinh, tuần hành thị uy, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn, vận động của Công hội đỏ, công nhân và nông dân mít tinh chào mừng Ngày Quốc tế Lao động 01/5. Đây là lần đầu tiên, giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên phạm vi toàn quốc đoàn kết đấu tranh tỏ rõ sức mạnh vô địch, sứ mệnh lịch sử, nghị lực phi thường của khối liên minh Công-Nông.
Trong cao trào cách mạng 1936-1939, thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động được tổ chức công khai. Đặc biệt là cuộc mít tinh ngày 01/5/1938 tại Hà Nội có gần 3 vạn công nhân lao động tham gia.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 56 quyết định để công nhân lao động cả nước nghỉ hưởng lương ngày Quốc tế Lao động.
Từ ngày 01/5/1925 cho đến ngày 01/5/1975, lực lượng công nhân và nhân dân lao động của nước ta trải qua tròn nửa thế kỷ đấu tranh kiên cường, bất khuất dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần đánh bại hai đế quốc xâm lược, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là qua 36 năm đổi mới, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò của mình và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết số 20-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Đảng ta xác định: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng,văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”, đồng thời đề ra mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân trong thời gian tới là:
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói chung trong các doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở Đảng, công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hóa: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học-công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao.
KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
---------------
1. Tinh thần chiến thắng 30/4 và ngày Quốc tế Lao động 1/5 bất diệt!
2. Nhiệt liệt chào mừng 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022)!
3. Đảng bộ và nhân dân Tam Kỳ quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXI!
4. Đảng bộ và Nhân dân thành phố Tam Kỳ ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022!
5. Cán bộ và Nhân dân Thành phố Tam Kỳ đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh!
6. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, Đảng bộ và Nhân dân Tam Kỳ quyết tâm xây dựng thành phố phồn vinh, hạnh phúc!
7. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!
8. Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại!
9. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
10. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!